Thứ Năm, 1 tháng 8, 2013

Vai trò của Nhà cung cấp nước trong chấn hưng điện ảnh dân tộc

Thực từ trạng hạn chế của điện ảnh nước nhà, việc chấn hưng, phát triển loại hình nghệ thuật này không còn là nhu cầu của công chúng, mà trở nên một yêu cầu của văn hóa dân tộc trong thời kỳ mới. Trong bối cảnh đó, "Đề cương chiến lược phát triển điện ảnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030" đang được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức bàn thảo và lấy ý kiến là bước đi quan yếu. Trong chiến lược đó, cần khẳng định vai trò to lớn của Nhà nước trong việc tổ chức đào tạo hàng ngũ và xây dựng cơ sở vật chất cho điện ảnh

Trong quan niệm của đông đảo người xem ở Việt Nam hiện, phim truyện màn ảnh lớn và phim truyện truyền hình đều là phim, đều là điện ảnh. Tuy nhiên, khi nhắc tới nền điện ảnh của một nước nào đó, giới hoạt động điện ảnh thường chỉ tính đến phim chiếu trên màn ảnh lớn tại rạp. Cũng như vậy, các Liên hoan phim trên thế giới, các giải thưởng dành cho tác phẩm điện ảnh xuất sắc cũng chỉ hàm nghĩa những bộ phim chiếu trên màn ảnh lớn. Tịnh không tính tới các phim nhiều tập của truyền hình. Tách bạch rành rọt như vậy để thấy với thực trạng hiện giờ, nền điện ảnh của nước ta như đang trong "cơn bĩ cực". Vào những năm 80 của thế kỷ trước, trên cả nước có tới ba đến bốn hãng phim lớn như Hãng phim truyện Hà Nội, Hãng phim Sài Gòn giải phóng, Hãng phim Nguyễn Đình Chiểu,... Số đầu phim xuất xưởng hằng năm có lúc lên gần 30 bộ. Nay các hãng phim trên đều đã chuyển thành đơn vị một thành viên, tự tính lấy để làm phim và... Nuôi nhau! hồ hết nghệ sĩ và viên chức kỹ thuật trong biên chế Nhà nước, có thâm niên và trình độ tay nghề đều không sống nổi bằng đồng lương, mà phải tự đi kiếm việc ở ngoài mà làm thêm. Số đầu phim được làm ra bằng vốn của Nhà nước leo lắt mỗi năm từ ba đến bốn bộ. Và những bộ phim này vẫn được xem là sản phẩm để "gìn giữ bộ mặt" cho nền điện ảnh nước nhà trước đồng nghiệp, bè bạn trong khu vực, trên thế giới. Ấy thế mà thảng hoặc, đây đó vẫn bắt gặp giọng điệu mỉa mai, chế giễu những bộ phim được làm ra bởi đồng bạc tài trợ của Nhà nước.

Đã đành trong lĩnh vực văn hóa, vấn đề tầng lớp hóa là xu thế và đề nghị tất yếu. Nhưng có một thực tại cũng cần tỉnh ngủ nhìn ra: trong vài chục bộ phim điện ảnh do tư nhân bỏ vốn rất khó chọn lấy vài bộ để chiếu cho bạn bè đồng nghiệp trong khu vực và thế giới như những tác phẩm "giữ giàng thể diện" cho nền điện ảnh dân tộc bữa nay. Những người Việt Nam làm phim ở nước ngoài trong mấy chục năm qua cũng đã đóng góp cho nền điện ảnh dân tộc những bộ phim có giá trị như Con thú tàn tật, Thời xa rời (đạo diễn Hồ Quang Minh), Mùi đu đủ xanh (đạo diễn Trần Anh Hùng), Mùa len trâu (đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh) và gần đây hơn là Thiên mệnh anh hùng (đạo diễn Victo Vũ)... Nhưng như báo giới đã đánh động, một số người trong số họ khi về làm phim tại Việt Nam, đã đánh mất giọng điệu và sự nghiêm cẩn trong nghề nghiệp, để nhanh chóng hội nhập dòng phim chỉ đặt một mục đích duy nhất là lợi nhuận!

Đến đây lại nảy một câu hỏi: tại sao quốc gia cần tiếp kiến có sự đầu tư kinh phí, sự quan hoài hơn nữa để vực dậy và nuôi sống nền điện ảnh nước nhà? Lý do trước nhất mà ai cũng biết, giống như mọi hoạt động văn hóa nói chung. Hoạt động điện ảnh ở nước ta phải góp phần định hướng văn hóa, tinh thần. Tức là sản phẩm điện ảnh không chỉ thuần túy mang tính chất hàng hóa, mà còn bảo đảm chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ... Để đạt tới các mục đích ấy, chẳng thể chỉ đặt lên "đôi vai" nhà sinh sản phim tư nhân; cũng chẳng thể đòi hỏi sản phẩm điện ảnh của họ đạt tới những đề nghị như vậy, vì dẫu thế nào thì kinh dinh vẫn là mục đích quan trọng của họ. Chính Nhà nước đã từng chi kinh phí ra để gột dựng một nền điện ảnh, tạo ra những sản phẩm đạt đề nghị về tư tưởng - thẩm mỹ của tầng lớp. Và cũng cần khẳng định rằng, các sản phẩm điện ảnh giàu giá trị tư tưởng - thẩm mỹ ấy đã được làm ra bởi hàng ngũ những người có trình độ tay nghề cao, lại không bị chi phối bởi các phép tính lờ lãi - thiên hướng điện ảnh ấy sẽ giữ chuẩn mực và làm đối trọng với các sản phẩm điện ảnh thuần túy thương nghiệp. Cũng xin nói thêm, tại hội thảo Nâng cao chất lượng sinh sản phim truyện truyền hình, trong phạm vi Triển lãm Quốc tế phim vào công nghệ truyền hình 2013 tại Hà Nội vào tháng 6 vừa qua, khi bàn về việc làm sao để phim truyện truyền hình có thể xuất khẩu được, các đạo biểu của Truyền hình Thái-lan, Malaysia, Indonesia, Singapore... Đã nhấn mạnh đến vai trò đầu tư của quốc gia. Tỉ dụ: năm 2010, Chính phủ Malaysia đã đầu tư cho việc làm phim truyện truyền hình tới 1,6% GDP và tới năm 2020 dự kiến sẽ tăng tới 6,5% GDP của quốc gia này.

Lý do thứ hai thường được xem là điều dĩ nhiên, nên chi còn ít người nhận ra. Đó là chúng ta đã có một nền điện ảnh được đặt nền móng bởi những thước phim thời sự, phóng sự quay ngay tại nơi bom rơi đạn nổ; những bộ phim truyện phục vụ đắc lực việc khích lệ, động viên đồng bào, chiến sĩ trong đấu tranh cũng như xây dựng trong hòa bình. Ai đó có coi sản phẩm phim ảnh thuở đó còn xơ cứng, giáo điều thì cũng xin đừng quên rằng, điện ảnh thuở lành mạnh, tôn vinh những giá trị ý thức đạo đức, xoành xoạch phấn đấu vươn lên đạt tới những chuẩn mực thẩm mỹ, nghề nghiệp cao. Các mặt mạnh này, ngay từ những năm tháng xa xưa, đã bắc nhịp cầu cho điện ảnh nước ta mở ra con đường đến với những nền điện ảnh tiến bộ trên thế giới. Về phương diện này, phim thương mại được sinh sản trong thời thị trường bây chừ thật sự là một bước lùi so với những gì mà điện ảnh chính thống đã đạt được. Bởi lẽ đó, điện ảnh được quốc gia cưu mang, nuôi dưỡng, nền điện ảnh do chính Nhà nước khai sinh và làm mọi việc tích cực nhất giúp cho điện ảnh dân tộc nhanh chóng hòa nhịp với các nền điện ảnh tiền tiến trên thế giới.

Mới đây, tại hai cuộc hội thảo diễn ra tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh về Đề án chiến lược phát triển điện ảnh, ý kiến đóng góp khá giao hội khi bàn tới các giải pháp tổng thể để làm một cuộc "lột" cho nền điện ảnh dân tộc trước đề nghị "số hóa" của điện ảnh toàn cầu. Đó là phải chóng vánh đổi mới, đương đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật của quá trình sinh sản tác phẩm điện ảnh, đồng thời phải mau chóng đào tạo đời nghệ sĩ, kỹ thuật viên... Qua đào tạo ở nước ngoài cả về nghệ thuật lẫn kỹ nghệ làm phim; học một cách căn bản, dài ngày. Cả hai công việc này đòi hỏi một lượng vốn đầu tư rất lớn. Liệu một cá nhân chủ nghĩa hoặc một nhóm các nhà sản xuất phim ảnh nào có khả năng bỏ ra một lượng kinh phí như vậy không? đợi chờ ở sự gom góp, tàng trữ của họ ư? Nếu vậy, nền điện ảnh nước nhà sẽ phải "dậm chân tại chỗ" trong khoảng vài chục năm, trong khi nghệ thuật và công nghệ làm phim trên thế giới vẫn phát triển với tốc độ chóng mặt. Bởi vậy, chỉ có thể trông cậy ở vai trò của quốc gia. Tuy nhiên, có một vấn đề chẳng thể bỏ qua, để Đề án chiến lược phát triển điện ảnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 thật sự có tính khả thi cần có sự đầu tư đồng bộ. Vày, tại hai cuộc hội thảo ở Hà nội và TP Hồ Chí Minh mới đây, vẫn thấy bóng dáng một số vị đại biểu, nguyên là lãnh đạo ngành điện ảnh, từng khá lớn tiếng kêu gọi phải đổi mới điện ảnh, đương đại hóa điện ảnh với các động thái "thiết thực" như xây dựng công trình này, làm xưởng kia; hoặc rất siêng năng ra nước ngoài mua máy móc và trang thiết bị điện ảnh mà hầu như chơi ngó ngàng tới khâu đào tạo người sử dụng, kết quả là máy móc, trang thiết bị trùm bạt, hoen gỉ và thành đống sắt vụn. Thêm nữa, là sự vụ chủ nghĩa thất thoát khoảng 40 tỷ đồng tại Cục Điện ảnh. Đã hai năm trôi qua kể từ ngày vụ thất thoát bị phanh phui. Vì sao đến tận giữa năm 2013 này vẫn chưa có lời đáp về số tiền thất thoát kia và ai sẽ phải là người chịu nghĩa vụ về sự thất thoát đó? Nếu chưa được làm minh bạch, liệu có làm suy giảm máu nóng và niềm tin lành mạnh của những người tâm huyết với sự nghiệp chấn hưng điện ảnh hay không?

Chấn hưng điện ảnh dân tộc là đòi hỏi tất yếu của sự phát triển. Điều đó phụ thuộc trước tiên vào việc đào tạo những con người có ý thức nghiêm trang tinh khiết tạo để làm ra tác phẩm nghệ thuật và đưa tác phẩm đó đến với công chúng. Tuy nhiên, trước khi đầu tư đào tạo, Nhà nước cần tổ chức tư vấn, khảo sát, tìm hiểu để tìm ra các địa chỉ đào tạo điện ảnh chuyên nghiệp, có uy tín quốc tế, hiệp với kinh phí mà có hiệu quả, không đào tạo tràn lan, thiếu tuyển lựa để rồi gây lãng phí, hoặc hiệu quả không cao. Cũng cần lưu ý tới vấn đề sau khi đào tạo, Nhà nước và những người tổ chức, lãnh đạo ngành điện ảnh cần tạo điều kiện để họ làm việc (nói cách khác là "tạo công ăn việc làm" qua các kế hoạch làm phim). Đặc biệt, cần lưu ý tới hiện tượng có người "chân trong, chân ngoài", sao lãng bổn phận với quốc gia, chỉ dành máu nóng phục vụ các hợp đồng sinh sản phim tư nhân, rồi dần dà xa rời, thậm chí thiếu trách nhiệm với Nhà nước - nơi đã đầu tư kinh phí để họ được đào tạo căn bản.

Con đường xã hội hóa sẽ là Nhà nước xuất vốn mua trang thiết bị để làm phim, xây dựng các phim trường, cho tư nhân làm phim thuê lại. Nhà nước xuất vốn cử người đi học làm phim ở nước ngoài và khi anh chị em thành đạt Nhà nước thu lại vốn qua các hợp đồng để sinh sản các bộ phim có chất lượng tư tưởng - nghệ thuật. Và vấn đề còn lại chính là tình yêu và nhận thức đúng đắn về vị trí và tầm quan yếu của ngành nghệ thuật điện ảnh trong đời sống văn hóa, ý thức của xã hội. Có được hai điều này, mỗi người làm điện ảnh sẽ có tầm nhìn xa về mai sau điện ảnh nước nhà...

TÔ HOÀNG